Việt Nam tụt hạng về chỉ số trí tuệ

Năm 2012, Việt Nam rơi vào Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu) của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thuộc Liên Hợp Quốc.

Từ thông tin này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với PGS-TS Phan Dũng, Giám đốc Trung tâm Đổi mới khoa học và kỹ thuật trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh. HCM, xoay quanh vấn đề sáng tạo, đổi mới.


Theo bảng xếp hạng của WIPO, Việt Nam xếp thứ 76/141, thuộc phần nửa dưới của các nước trên thế giới - nghĩa là tính đổi mới, sáng tạo của nước ta thuộc vào loại kém. Là người dạy cho người khác phương pháp luận sáng tạo, ông suy nghĩ gì về điều này?

Không có bằng sáng chế nào

Theo hai tiến sĩ Lê Văn Út (Phần Lan) và Thái Lâm Toàn, từ năm 2006 - 2010, Việt Nam chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ (trung bình mỗi năm có 1 bằng sáng chế). Đến năm 2011, Việt Nam với dân số hơn 80 triệu dân nhưng không có bằng sáng chế nào được đăng ký. Trong khi đó, con số này ở năm 2011 của một số nước trong khu vực Đông Nam Á như sau: Singapore: 647 bằng/4,8 triệu dân, Malaysia: 161/27,9 triệu,

Thái Lan: 53/68,1 triệu, Philippines: 27/93,6 triệu, Indonesia: 7/232 triệu, Brunei: 1/0,407 triệu. Trừ Mỹ ra, theo thống kê, 10 quốc gia/vùng lãnh thổ đứng đầu về số bằng sáng chế trong năm 2011 lần lượt: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Đài Loan, Canada, Pháp, Anh, Trung Quốc, Israel, Úc.

Về số lượng các bài báo khoa học trên các tập san quốc tế, theo GS Nguyễn Văn Tuấn (Úc), từ năm 1998-2008, Việt Nam có 5.070 bài. Trong khi đó, Thái Lan công bố 23.163 bài, cao hơn Việt Nam 4,5 lần dù số lượng giáo sư và tiến sĩ thấp hơn ta. Số bài báo của Việt Nam chỉ bằng 10% so với Singapore, 34% với Malaysia...


Theo WIPO, sở hữu trí tuệ có 2 nhánh chính: sở hữu công nghiệp và bản quyền tác giả. Khi nói đến sự đổi mới, không thể không nói về sự sáng tạo. Trong các loại hình sáng tạo của con người, cần nhấn mạnh rằng các sáng chế thuộc sở hữu công nghiệp, được bảo hộ bởi các bằng sáng chế và sáng chế theo bản quyền thể hiện dưới dạng bài báo, công trình nghiên cứu khoa học.

Theo tôi hiểu, khi đưa ra chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, WIPO phải tính đến số lượng bằng sáng chế được cấp; hợp đồng chuyển giao bằng sáng chế, quyền tác giả; số lượng và chất lượng các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế chuyên ngành của đất nước mà WIPO muốn đánh giá.

Với những thông tin tôi có được về hai loại hình sáng tạo vừa đề cập, tôi nghĩ vị trí 76/141 của Việt Nam là khá chính xác.

Ông cho rằng sự sáng tạo và đổi mới thật sự quan trọng với cuộc sống như thế nào?

Nó quan trọng như thế nào? Chỉ là một ví dụ gần đây. Hội nghị thượng đỉnh APEC 20 tại Vladivostok, vùng viễn đông của Nga, gần đây đã đưa ra một tuyên bố chung: "Liên kết với tăng trưởng, sáng tạo với thịnh vượng".

Trên thực tế, "hành trình" sáng tạo, đổi mới và trí tuệ dường như chỉ dành cho các nước giàu, và các nước như Việt Nam thường vẫn phải đi sau?

Tôi nghĩ điều ngược lại là đúng, nhờ vào sự sáng tạo và đổi mới của các nước nghèo để trở nên giàu có. Các nước giàu ngày nay là những nước đã chú ý đến sự sáng tạo và đổi mới trong một thời gian dài. Ví dụ, ở Anh, Đạo luật Bằng sáng chế có từ năm 1623, và các phát minh khoa học và sau đó là các phát minh kỹ thuật phát triển mạnh ở phương Tây từ thế kỷ 16 đến nay. Các nước công nghiệp hóa mới cũng là những quốc gia rất chú trọng đến đổi mới và sáng tạo.

Vì vậy, để trở nên mạnh mẽ - tức là ít nhất là không đứng sau các nước láng giềng của chúng ta về sự đổi mới, sáng tạo - chúng ta cần làm gì theo ý kiến của bạn?

Để làm được điều đó đòi hỏi sự nỗ lực từ nhiều phía, nhiều khía cạnh. Yếu tố quan trọng nhất là cải cách giáo dục. Theo thông tin từ báo chí, khảo sát của Viện Nghiên cứu Giáo dục tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. HCM vào tháng 5 cho thấy hơn 80% học sinh tiểu học tham gia khảo sát thiếu kỹ năng thực hành xã hội và sự nhạy bén trong tư duy phân tích và giải quyết vấn đề. Phần lớn học sinh tiếp thu kiến thức, ghi nhớ bài học rất tốt nhưng khi xử lý tình huống thực tế lại lúng túng và thiếu linh hoạt. Học tập tại Việt Nam thường chỉ ảnh hưởng đến trí nhớ, không ảnh hưởng đến tư duy sáng tạo và chúng ta thường nhầm lẫn giữa giáo dục và giảng dạy. Giáo dục là tạo ra một sự thay đổi nhất định và ổn định trong các hành động (hành vi) của người học, bao gồm các hành động (hành vi) liên quan đến sáng tạo và đổi mới.

Cần phải đưa chủ đề của phương pháp sáng tạo và sở hữu trí tuệ vào các trường học để những điều này được hiểu rộng rãi. Trên thực tế, có những phát minh đơn giản, gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Nhiều người cũng có phát minh nhưng vì không biết về sở hữu trí tuệ, không nghĩ đó là phát minh nên không viết đơn hoặc không biết viết đơn. Ngoài ra, cần có các tổ chức hỗ trợ khác như các trung tâm dịch vụ chuyên nghiệp tư vấn đăng ký bản quyền sáng chế, cơ quan sở hữu trí tuệ cũng phải chuyên nghiệp và nâng cao năng lực tuyên truyền, quản lý...

Nhưng chương trình giáo dục của chúng ta được coi là quá chặt chẽ, nặng nề để giảm tải. Có phù hợp để thêm vào một chủ đề, một chủ đề khác, thưa ông?

Những gì không cần thì phải bỏ, còn những gì cần thiết thì phải đưa vào. Giáo dục là phải dạy cách suy nghĩ để giúp người học nắm vững lô gích, triết lý, các ích lợi của môn học đó chứ không chỉ chú trọng nhồi nhét kiến thức vì kiến thức là vô cùng, vô tận.

Thật sự, chúng ta đang cần một tổng công trình sư để thay đổi toàn diện hệ thống giáo dục.



Post a Comment

Previous Post Next Post